Monday, April 27, 2009

















Mẹ Việt Nam còn đợi

Tháng Tư hoa đào rơi
Buồn như những kiếp người
Lê thân nơi xứ lạ
Từ sau cuộc đổi đời

Ba mươi năm rồi nhỉ?
Mà cứ ngỡ hôm qua
Đồng xanh thành biển cả
Lính trẻ nay đã già

Bên kia bờ lận đận
Kẻ chiến thắng ăn mừng
Bên này bờ thống hận
Người chiến bại rưng rưng

Ba mươi năm dâu bể
Người chết đã đầu thai
Oan khiên còn đeo đẳng
Trong lòng người không phai

Việt Nam quê hương tôi
Trái đau thương chín muồi
Vẫn bám cành vô vọng
Bao giờ sao đổi ngôi?

Hoa tàn rồi hoa nở
Lá vàng rồi lá xanh
Trái đất vuông rồi méo
Mà thương tích chẳng lành

Việt Nam ơi, Việt Nam
Cháu con khóc hận Chàm
Ngựa xa bầy hí lộng
Bờm dựng đứng hờn căm

Ba mươi năm nuối tiếc
Người dệt lại nhung y
Thêm quân hàm đặc cách
Quên nhục ngày ra đi

Ba mươi năm biệt xứ
Chiến bào rã trong rương
Bụi thời gian trên tóc
Rêu bám giày tha hương

Ba mươi năm chiến thắng
Hơn cả bốn ngàn năm
Biển Đông tràn sóng hận
Sông Cửu khóc âm thầm

Cờ đào xưa đuổi giặc
Cờ đào nay rước voi
Hổ phụ sanh khuyển tử
Ô nhục cả giống nòi

Ba mươi năm chưa đủ
Cho mồ cỏ mọc xanh
Chút gia tài của Mẹ
Nghịch tử quyết tâm giành

Tháng Tư thắp nến vàng
Con cháu chít khăn tang
Oán than và uất hận
Đốt buồn theo khói nhang

Sao ta còn khóc mãi
Nuối tiếc thời quang vinh?
Nước mắt nào rửa được
Mối nhục ngày lui binh?

Rồi những năm sau nữa
Người lính già tắt hơi
Biết cháu con còn nhớ
Chuyện một ngày ba mươi?

Cứ vững lòng đi tới
Chiến thắng sẽ về ta
Mẹ Việt Nam còn đợi
Đàn con về đất cha...

Vũ Đình Trường
4//2005















Lính một ngày,
lính một đời



Tôi cũng một thời áo trận
Một thời giày bố giày sô
Một thời gối đầu mũ sắt
tình thư dưới đáy ba lô

Nhớ buổi ban đầu bở ngỡ
quân trường bỏ lại sau lưng
lên xe vào nơi chiến địa
nhớ nhà lòng bỗng rưng rưng

cỏ tranh bạt ngàn Tiên Phước
mênh mang rừng núi chập chùng
giặc xua quân vào từng đợt
nhịp nhàng tiền pháo hậu xung

Ba ngày trên đồi cố thủ
nghe lòng quá đỗi hoang mang
mặt trời không ngừng trút lửa
hai ngày cổ họng cháy khan

bi đông chẳng còn giọt nước
một mình trong hố cá nhân
gỗ đá cũng còn tan nát
con người thật khó toàn thân

"Cọp mười ba răng"... quá khổ
chiến trường di chuyển liên miên
Thạch Trụ, Sơn Hà, Đức Phổ
Địa danh nghe tiếng chẳng hiền

Làm lính chưa được mấy năm
Bỗng dưng súng gãy âm thầm
một ngày tháng Tư trầm uất
một ngày hận đến trăm năm

Ba mươi bốn năm, nhớ lại
nhớ canh nấu với lá vang
chia nhau phần cơm gạo sấy
mà thương phận lính vô vàn

Bây giờ đã không còn nữa
những ngày lửa khói vây quanh
nhưng sao vẫn nghe âm vọng
thênh thang một khúc quân hành

mới hay một ngày ở lính
một đời chất lính còn nguyên
ba mươi bốn năm chưa xóa
vết hằn một tháng Tư đen

Vũ Đình Trường
26/4/2009

Wednesday, April 1, 2009






















Khi Trở Về Dục Mỹ



Giữa tháng ba ta trở về Dục Mỹ
Cuộc chiến chừng như đến lúc chuyển mình
Đạn Khánh Dương đã vọng về rền rĩ
Nổ bàng hoàng từ đáy vực u minh

Tượng người lính đồng đen còn đứng thẳng
sao quân trường ai nấy cũng xôn xao
Vùng một mất rồi, vùng hai di tản
Lính về đồng bằng, bỏ lại miền cao

Thế là xong. Ninh Hòa, ta đi nhé
Chắc chẳng bao giờ trở lại. Đành thôi
Trời bỗng mưa trên hồn ta quạnh quẽ
Giọt vắn, giọt dài, giọt mặn vành môi

Liên Đoàn 9, ba tiểu đoàn tân lập.
Quân cảnh hết thời thành cọp rằn ri
Đụng trận phen này không chừng ngáp ngáp
Lính mới bổ sung đánh đấm nỗi gì

Trung đội ta ba mươi tên tứ xứ
Đứa Nhà Bè, Khánh Hội, đứa Tây Ninh
Người mang máy gốc Miên hiền dễ sợ
(nào biết tháng tư hắn cứu mạng mình)

Theo đoàn quân ta rời miền cát trắng
Sóng nhấp nhô trên biển sớm trong ngần
Tàu lặng lẽ xuôi dần về Tân Cảng
Cả ngàn người chen chúc, lính cùng dân

Thế là hết. Ta quay đầu ngó lại
Dục Mỹ, núi Đeo. Rừng núi sình lầy.
Ta đâu biết sẽ thành tên chiến bại
nên buổi phân kỳ chẳng nói chia tay.

Vũ Đình Trường
1998 - nhớ lại tháng 3/75